Tình hình này có lẽ khó hiểu đối với một tâm trí vốn đã quen suy nghĩ rằng mọi thứ đáng giá đều ở tương lai. Đau khổ không thể sống bám vào niềm vui, bởi vì nó thấy niềm vui hoàn toàn không thể hòa lẫn với đau khổ được. Quá khứ và tương lai hình thành một chuỗi không gián đoạn, nếu như sức mạnh cứu chuộc của cái Bây giờ không được khởi động thông qua sự hiện trú hữu thức của bạn.
Cảm nhận hơi thở thấm sâu xuống phần bụng dưới. Không vật gì có thể hiện hữu mà không có không gian, vậy mà không gian lại là cái không một vật. Một vài cái quầng chứa nhóm đau khổ rất đáng ghét nhưng lại vô hại, giống như một đứa trẻ cứ rên la không chịu dừng vậy.
Một khi bạn xây dựng một lý thuyết, thật không khó cho lắm để tìm thấy chứng cứ nhằm bênh vực nó, ít ra cho đến khi xuất hiện một lý thuyết khác. Bạn trở thành “ánh sáng chiếu soi thế giới”, bạn truyền bá ý thức thuần túy cho khắp mọi tạo vật, và thế là bạn loại trừ đau khổ ở bình diện nguyên nhân. Và rồi có cả điều kiện văn hóa của chúng ta nữa chứ, nó có liên quan đến nơi chúng ta sinh sống về mặt địa lý và thời kỳ lịch sử trong đó có chún ta.
Tình hình được gán nhãn hiệu “bệnh tật” không có liên quan gì đến con người thực sự của bạn. Bạn muốn chết thật dễ dàng không? Phải chăng bạn thà chết chứ không chịu đau đớn, không chịu thống khổ? Vậy trong từng khoảnh khắc bạn hãy chết đi với quá khứ, và hãy để cho ánh sáng hiện trú của bạn đánh tan đi cái tôi mê muội, nặng nề, và bị trói buộc bởi thời gian mà bạn nghĩ là “con người bạn”. Ngay lúc bạn bắt đầu quan sát thực thể tư duy, thì một mức độ ý thức cao hơn được khởi động.
Còn những người khác thì nỗ lực thoát khỏi thân xác bằng cách tiến vào trạng thái hôn mê xuất thần hay tìm kiếm các kinh nghiệm ngoài xác thân. Trong cái trạng thái bị đồng hóa với tâm trí này, nỗi sợ chết tác động đến mọi khía cạnh trong cuộc sống của bạn. Nói khác đi, hãy cảm nhận cơ thể bạn từ bên trong.
Bạn đang bỏ lại đằng sau mình cái thế giới vô cảm bị giảm lược bởi tâm trí, cái thế giới trơ lì của thời gian. Bằng biểu tượng ngài đã cố gắng truyền đạt bí quyết không phản kháng và không phản ứng. Chúng ta có thể nói rằng đừng chỉ suy nghĩ đơn thuần bằng đầu óc, mà “suy nghĩ” bằng toàn bộ cơ thể của mình.
Sự phản kháng của một số người đối với cái đang là thậm chí còn tăng thêm và sự việc hóa ra càng tệ hại hơn. Đối với tôm tiến bộ dường như là tất cả, cả trong cuộc sống cá nhân lẫn tập thể của chúng ta, không chấp nhận các hạn chế của hiện tại mà phải phấn đấu để vượt qua chúng và kiến tạo thứ gì đó tốt đẹp hơn. Phải chăng như thế là bi thảm hay tàn ác? Chỉ khi nào bạn tạo ra một nhân thân cá biệt cho từng loài, khi nào bạn quên phứt rằng ý thức của nó chính là tinh hoa Thượng đế tự biểu hiện dưới dạng hữu tướng, thì cuộc chơi ấy mới đậm nét bi tráng.
Không lấy gì làm ngạc nhiên rằng lý thuyết gần đây nhất cho rằng không gian không phải là hoàn toàn trống rỗng, rằng nó tràn đầy một chất nào đó. Nhưng trong trạng thái vâng phục, một nguồn năng lượng hoàn toàn khác biệt, một phẩm chất khác hẳn, tuôn chảy vào hành động của bạn. Nhưng nếu ông gọi một số xúc cảm là tiêu cực, thì chẳng phải thực sự ông đang nói rằng chúng không nên hiện hữu ở đó, rằng có những xúc cảm ấy là không ổn đó sao? Theo tôi hiểu, chúng ta nên cho phép bản thân mình để mặc bất cứ mọi tình cảm xuất hiện, thay vì phán xét chúng là tệ hại hay nói rằng chúng ta không nên có chúng.
Nó diễn ra như thể đau khổ trở thành nhiên liệu để thắp lên ngọn lửa ý thức, rồi sau đó càng cháy rực rỡ hơn. một nhóm người quần tụ với nhau trong trạng thái hiện trú sẽ sản sinh một trường năng lượng tập thể có cường độ rất lớn. Khi bạn tạo ra một vấn đề, bạn cũng gây ra đau khổ.
Khi sự phản kháng này được khuếch đại lên do một thử thách hay đe doạ nào đó đối với tự ngã, nó sẽ gây ra tâm lý cực kỳ tiêu cực như giận dữ, khiếp hại, hiếu chiến, hay gây gổ, u uất, và vân vân. Xem chính mình là một thân xác mong manh được sinh ra rồi sau đó ít lâu phải chết đi thì quả là ảo tưởng vậy. Nó sẽ giải phóng phần lớn ý thức trước đây đã bị giam hãm vào vòng suy nghĩ vô bổ và có tính cưỡng chế.